Mục lục
Từ niết bàn quá phổ biến đối với những người nói tiếng Anh đến nỗi ý nghĩa thực sự của nó thường bị mất. Từ này đã được sử dụng để có nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "sự yên tĩnh." Nirvana còn là tên của một ban nhạc grunge nổi tiếng của Mỹ, cũng như tên của nhiều sản phẩm tiêu dùng, từ nước đóng chai đến nước hoa. Nhưng nó là gì? Và làm thế nào để nó phù hợp với Phật giáo?
Ý nghĩa của Niết bàn
Theo định nghĩa tâm linh, nirvana (hay nibbana trong tiếng Pali) là một từ tiếng Phạn cổ có nghĩa là " để dập tắt," với ý nghĩa dập tắt ngọn lửa. Nghĩa đen hơn này đã khiến nhiều người phương Tây cho rằng mục tiêu của Phật giáo là xóa sổ chính mình. Nhưng đó hoàn toàn không phải là điều mà Phật giáo, hay niết bàn, hướng tới. Sự giải thoát bao hàm sự chấm dứt luân hồi, khổ đau; Luân hồi thường được định nghĩa là chu kỳ sinh, tử và tái sinh, mặc dù trong Phật giáo, điều này không giống với sự tái sinh của những linh hồn kín đáo, như trong Ấn Độ giáo, mà là sự tái sinh của các khuynh hướng nghiệp. Niết bàn cũng được cho là sự giải thoát khỏi vòng luân hồi này và dukkha , sự căng thẳng/đau đớn/không hài lòng của cuộc sống.
Trong bài pháp đầu tiên sau khi giác ngộ, Đức Phật đã giảng về Tứ Diệu Đế. Về cơ bản, Sự thật giải thích tại sao cuộc sống khiến chúng ta căng thẳng và thất vọng. Đức Phật cũng chỉ cho chúng ta phương thuốc và con đường giải thoát đó là Bát Chánh Đạo.Con đường.
Do đó, Phật giáo không phải là một hệ thống niềm tin mà nó là một thực hành giúp chúng ta ngừng đấu tranh.
Niết bàn không phải là một nơi
Vậy, khi chúng ta được giải thoát, điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Các trường phái Phật giáo khác nhau hiểu niết bàn theo những cách khác nhau, nhưng nhìn chung họ đều đồng ý rằng niết bàn không phải là một nơi chốn. Nó giống một trạng thái tồn tại hơn. Tuy nhiên, Đức Phật cũng nói rằng bất cứ điều gì chúng ta có thể nói hoặc tưởng tượng về niết bàn đều sai vì nó hoàn toàn khác với cuộc sống bình thường của chúng ta. Niết bàn vượt khỏi không gian, thời gian và định nghĩa, vì vậy ngôn ngữ theo định nghĩa không đủ để thảo luận về nó. Nó chỉ có thể được trải nghiệm.
Nhiều kinh sách và luận giải nói về việc nhập niết bàn, nhưng (nói đúng ra), niết bàn không thể được nhập giống như cách chúng ta bước vào một căn phòng hoặc cách chúng ta có thể tưởng tượng là bước vào thiên đường. Học giả Theravadin Thanissaro Tỳ khưu nói,
"... cả luân hồi lẫn niết bàn đều không phải là một nơi. Luân hồi là một quá trình tạo ra các địa điểm, thậm chí cả thế giới, (điều này được gọi là trở thành)và sau đó lang thang khắp nơi chúng (điều này được gọi là sự sinh ra).Niết bàn là sự kết thúc của quá trình này."Tất nhiên, nhiều thế hệ Phật tử đã tưởng tượng niết bàn là một nơi chốn, bởi vì sự hạn chế của ngôn ngữ khiến chúng ta không có cách nào khác để nói về trạng thái hiện hữu này. Ngoài ra còn có một tín ngưỡng dân gian cổ xưa rằng một người phải tái sinh thành nam giới để nhập niết bàn.Đức Phật lịch sử chưa bao giờ nói bất kỳ điều gì như vậy, nhưng niềm tin dân gian đã được phản ánh trong một số kinh điển Đại thừa. Tuy nhiên, quan niệm này đã bị bác bỏ một cách dứt khoát trong Kinh Duy Ma Cật, trong đó nói rõ rằng cả phụ nữ và cư sĩ đều có thể giác ngộ và kinh nghiệm niết bàn.
Niết bàn trong Phật giáo Nguyên thủy
Phật giáo Nguyên thủy mô tả hai loại niết bàn—hoặc Nibbana , như những người Nguyên thủy thường sử dụng từ tiếng Pali. Đầu tiên là "Niết bàn với tàn dư." Điều này được so sánh với than hồng vẫn còn ấm sau khi ngọn lửa đã tắt, và nó mô tả một chúng sinh đã giác ngộ hay một vị A-la-hán. Vị A-la-hán vẫn còn ý thức về lạc và khổ, nhưng vị ấy không còn bị ràng buộc vào chúng nữa.
Loại thứ hai là parinibbana , là niết bàn cuối cùng hoặc trọn vẹn được "nhập" vào lúc chết. Bây giờ than hồng đã nguội. Đức Phật dạy rằng trạng thái này không phải là hiện hữu – bởi vì cái có thể nói là hiện hữu bị giới hạn trong thời gian và không gian – cũng không phải là không hiện hữu. Điều dường như nghịch lý này phản ánh sự khó khăn xảy ra khi ngôn ngữ thông thường cố gắng mô tả một trạng thái không thể diễn tả được.
Xem thêm: Cờ bạc có phải là tội lỗi không? Tìm Hiểu Điều Kinh Thánh NóiNiết bàn trong Phật giáo Đại thừa
Một trong những đặc điểm nổi bật của Phật giáo Đại thừa là Bồ tát giới. Phật tử Đại thừa cống hiến cho sự giác ngộ tối thượng của tất cả chúng sinh, và do đó chọn ở lại thế gianđể hỗ trợ người khác hơn là tiến tới sự giác ngộ cá nhân. Ít nhất trong một số trường phái Đại thừa, bởi vì mọi thứ đều tồn tại lẫn nhau, niết bàn "cá nhân" thậm chí không được xem xét. Những trường phái Phật giáo này rất quan tâm đến việc sống trong thế giới này, không rời bỏ nó.
Xem thêm: Sử dụng Hagstones trong phép thuật dân gianMột số trường phái Phật giáo Đại thừa cũng dạy rằng luân hồi và niết bàn là không tách rời. Một chúng sinh đã nhận ra hay nhận thức được tánh không của các hiện tượng sẽ nhận ra rằng niết bàn và luân hồi không phải là đối lập, mà thay vào đó hoàn toàn thấm nhuần lẫn nhau. Vì chân lý vốn có của chúng ta là Phật Tánh, cả niết bàn và luân hồi đều là những biểu hiện tự nhiên của sự trong sáng trống rỗng vốn có của tâm chúng ta, và niết bàn có thể được xem như bản chất chân thật, thanh tịnh của luân hồi. Để biết thêm về điểm này, xem thêm " Tâm Kinh " và " Nhị Đế ".
Định dạng trích dẫn bài viết này Trích dẫn của bạn O'Brien, Barbara. “Niết bàn và Khái niệm Tự do trong Phật giáo.” Tìm hiểu Tôn giáo, ngày 25 tháng 8 năm 2020, learnreligions.com/nirvana-449567. O'Brien, Barbara. (2020, ngày 25 tháng 8). Niết bàn và Khái niệm Tự do trong Đạo Phật. Lấy từ //www.learnreligions.com/nirvana-449567 O'Brien, Barbara. “Niết bàn và Khái niệm Tự do trong Phật giáo.” Tìm hiểu Tôn giáo. //www.learnreligions.com/nirvana-449567 (truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2023). sao chép trích dẫn